LÃI SUẤT VAY CỦA HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Lãi suất trong hợp đồng cho vay của tổ chức tín dụng

Lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng không bị giới hạn ở mức lãi suất tối đa 20% của khoản tiền vay theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Bởi, hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng được điều chỉnh bởi Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể như sau:

Khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.

Lãi suất cho vay được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN (Thông tư 39) theo đó tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định về lãi suất cho vay tối đa trong một số lĩnh vực phục vụ lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn, thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu, phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Theo Quyết định số 1730/QD-NHNN năm 2020 về mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế theo quy định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN, ngoại trừ một số lĩnh vực khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số ngành nghề đặc thù theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư 39 mà theo đó tổ chức tín dụng chỉ được áp dụng mức cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam là 4,5%/năm thì trong các trường hợp khác hoạt động cho vay tiền giữa tổ chức tín dụng và khách hàng không bị giới hạn về hạn mức 20%/năm của khoản tiền vay theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Điểm d khoản 3 Điều 14 Nghị định 88/2019/NĐ-CP quy định vi phạm việc áp dụng lãi suất cấp tín dụng không đúng quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nêu trên, các tổ chức tín dụng có khả năng bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

Cũng xin lưu ý rằng, Bộ luật Dân sự 2015 hạn chế lãi suất cho vay theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.

Trường hợp luật khác có liên quan quy định khác được hiểu là Bộ luật Dân sự 2015 để mở đối với hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010. Như vậy, xét về khía cạnh áp dụng pháp luật, Hợp đồng tín dụng phải trước tiên được hiểu và điều chỉnh theo Luật Các tổ chức tín dụng 2010.

Để làm rõ quan điểm này, Hôi đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP có hiệu lực kể từ ngày 11/01/2019 (Nghị quyết 01/2019) hướng dẫn áp dụng lãi suất trong đó lãi suất trong Hợp đồng tín dụng là do các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng tại thời điểm xác lập hợp đồng, thời điểm tính lãi suất (Điều 7 Nghị quyết 01/2019).

Về mặt thực tiễn xét xử, khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 01/2019 cũng đã hướng dẫn thống nhất quan điểm xét xử đối với các Toà án như sau: “Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, Tòa án áp dụng quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng Luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết mà không áp dụng quy định về giới hạn lãi suất của Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi, lãi suất”

Như vậy, đối với hợp đồng vay mà một bên là tổ chức tín dụng thì lãi suất của Hợp đồng tín dụng được thực hiện theo thoả thuận mà không bị giới hạn mức trần 20%/năm theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015.

 

 Điều kiện xét duyệt vay vốn

Pháp luật ngân hàng quy định, tổ chức tín dụng xem xét, quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau đây: (Điều 7, khoản 2 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN)

Thứ nhất, khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật. Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật;

Thứ hai, nhu cầu vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp (được hiểu là không phải là bất hợp pháp);

Thứ ba, có phương án sử dụng vốn khả thi;

Thứ tư, có khả năng tài chính để trả nợ;

Thứ năm, có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh theo đánh giá của tổ chức tín dụng, trong trường hợp khách hàng vay vốn ngắn hạn bằng đồng Việt Nam được hưởng mức ưu đãi về lãi suất không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn sau đây:

+ Phục vụ lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;

+ Thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu theo quy định tại Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật Thương mại;

+ Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;

+ Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ theo quy định của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ;

+ Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định tại Luật Công nghệ cao và các văn bản hướng dẫn Luật Công nghệ cao.

Khách hàng vay vốn phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn, đồng thời phải cung cấp cho tổ chức tín dụng các tài liệu chứng minh đủ điều kiện vay vốn và các tài liệu khác do tổ chức tín dụng hướng dẫn, kể cả cho vay vốh cầm cố bằng tiền gửi tiết kiệm, vì cầm cố tiền gửi tiết kiệm để vay vôn là một biện pháp bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật.

Như vậy, khi có nhu cầu vay vốn khách hàng không còn phải gửi cho các tổ chức tín dụng “Giấy đề nghị vay vốn” như quy định trong nhiều năm trước kia.

Tổ chức tín dụng căn cứ vào phương án sử dụng vốn, khả năng tài chính của khách hàng, các giới hạn cấp tín dụng và khả năng nguồn vốn để thỏa thuận với khách hàng về mức cho vay (Điều 12 Thông tư 39/2016/TT-NHNN)

Các tổ chức tín dụng phải tuân thủ quy định về việc giải ngân không dùng tiền mặt (Thông tư số 21/2017/TT-NHNN)

Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm và pháp luật có liên quan. Tổ chức tín dụng quyết định và chịu trách nhiệm về việc cho vay không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay.

Trên đây là nội dung tư vấn về “Pháp luật về cho vay và điều kiện vay vốn tại tổ chức tín dụng”

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *